Hiển thị các bài đăng có nhãn kế đô. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kế đô. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

Tứ Dư

Viết tặng lớp Chiêm Tinh. Đây là 1 chủ đề nâng cao của Chiêm Tinh, bạn cần có lượng kiến thức nhất định về Chiêm Tinh để đọc hiểu bài viết này. ---quybaba---

Bài viết này thuộc chuyên mục "Thất Chính, Tứ Dư" của blog quybaba.blogspot.com


Tinh Mệnh Học Trung Hoa thực chất chính là bộ môn Chiêm Tinh mang bản sắc Trung Hoa, cùng du nhập từ nguồn gốc Ấn Độ như Chiêm Tinh Tây Phương, do vậy có chung 1 số đối tượng như mặt trời, mặt trăng, các sao kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ (gọi chung là Thất Chính).

Ở Phương Tây, các đối tượng Thiên Văn sau này được thêm vào lá số và có giá trị lớn trong luận đoán gồm có: Chiron, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, Diêm Vương Tinh, Mean Lilith, North Node. South Node. Các đối tượng bổ sung này, kết hợp với Thất Chính chính là các đối tượng  phải có trong 1 cuốn lịch Thiên Văn tiêu chuẩn của Phương Tây

Ở Trung Quốc cổ đại, ngoài Thất Chính, các nhà Tinh Mệnh Học đã sử dụng 2 nhân tố Thiên Văn vốn có ý nghĩa quyết định để tính toán Nhật Thực, Nguyệt Thực là La Hầu (Rahu) và Kế Đô (Ketu), có nguồn gốc từ Chiêm Tinh Ấn Độ, hợp với 2 nhân tố hẳn là đặc sản địa phương là Nguyệt Bột, Tử Khí tạo thành 1 hệ thống thứ 2 gọi là Tứ Dư, đó là 4 công cụ rất mạnh trong luận đoán lá số, tiếc rằng hiện nay cũng coi như thất truyền vì để hiểu bản chất của các luận đoán sử dụng 4 đối tượng này, một người cần có công phu nhất định về Thiền Quán cũng như kinh nghiệm tự thân kinh qua thăng trầm trong cuộc sống.

Có một điều đáng tiếc là hiện nay dù Chiêm Tinh Tây Phương đã du nhập nhiều loại đối tượng luận đoán từ nhiều nguồn, như hệ thống các điểm tính toán đặc biệt gọi chung là các Parts của Ả rập. La Hầu, Kế Đô của Ấn Độ (tên tiếng Anh là Moon Nodes) Black Moon Lilith của Lưỡng Hà (Chính là Nguyệt Bột trong Tinh Mệnh Học Trung Hoa). Nhưng lại hoàn toàn không tham khảo đến hệ thống Tứ Dư của Trung Hoa. 

Tứ Dư gồm có:

La Hầu (được coi là dư khí của sao Hoả) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là North Node
Kế Đô (được coi là dư khí của sao Thổ) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là South Node
Nguyệt Bột (được coi là dư khí của sao Thuỷ) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là Mean Lilith
Tử Khí (Được coi là dư khí của sao Mộc) Không tìm thấy trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương.

La Hầu, Kế Đô là 2 điểm được sử dụng rộng rãi trong Evolution Astrology, một nhánh mới phát triển của Chiêm Tinh Học Tây Phương, chuyên nghiên cứu về Nghiệp Quả, các bài học cho linh hồn và lý thuyết cho rằng mỗi cá nhân đã tự thiết kế cuộc đời từ trước khi sinh ra. Sách vở của nhánh này hoàn toàn là công truyền, có thể dễ dàng tìm được trên Amazon. Đây hiện là nhánh quy tụ đại đa số cây đa cây đề trong giới Chiêm Tinh Gia Tây Phương. Tôi đã viết 1 bài khá chi tiết về cách sử dụng La Hầu, Kế Đô trong luận đoán 1 lá số trên Blog này, bạn có thể tham khảo nó ở đây.

Theo thông tin cung cấp trong Quả Lão Tinh Tông, 1 cuốn sách về Tinh Mệnh Học đã được dịch sang tiếng Việt, toạ độ của Nguyệt Bột, Tử Khí có thể tra cứu dễ dàng trong Trường Lịch, 1 loại Lịch Thiên Văn Trung Quốc. Nếu bạn chưa có Trường Lịch (bản thân tôi cũng không có) bạn có thể dùng Lịch Thiên Văn của Tây Phương (Ephemeris) để tra cứu toạ độ của Nguyệt Bột (chính là Mean Lilith, có biểu tượng là hình trăng lưỡi liềm đen đặt trên 1 chữ thập trong bảng bên dưới) Còn toạ độ của Tử Khí thì tạm ước lượng bằng cách nhẩm tính theo công thức là, 0.0352 độ 1 ngày, nó đi độ 28 năm (10228 ngày) hết 1 vòng, 28 tháng hết 1 cung Hoàng Đạo. Và vào ngày 1/6/2009, nó ở 10 độ 35 phút cung Bảo Bình, đến 30/6/2009, nó ở 11 độ 37 phút cung Bảo Bình. Tuy nhiên, do 28 hoàn toàn là con số ở dạng làm tròn, và tốc độ chuyển động có biến hoá nho nhỏ, cho nên sai số theo cách nhẩm này là không tránh khỏi.

Nhận xét chủ quan của tôi về cuốn Quả Lão Tinh Tông sau khi đọc là, không hiểu người biên soạn cuốn sách này có hiểu mình viết cái gì không, và không hiểu người dịch cuốn sách này sang tiếng Việt có hiểu mình đang dịch cái gì không? Vậy nên, kiến giải về Tứ Dư của tôi hoàn toàn là dựa trên nền tảng tôi đã học từ Chiêm Tinh Tây Phương và kinh nghiệm luận giải những lá số tôi có. Tuy nhiên, cần có kiến thức nhất định về 12 cung Hoàng Đạo và 12 cung địa bàn cũng như năng lực quan sát khách quan và 1 số kiến thức Chiêm Tinh khác để có thể hiểu nó.

Bước đầu tiên, theo kinh nghiệm của tôi là không phải ngẫu nhiên mà 4 nhân tố này được gọi là Dư Khí của hành tinh. Chúng chính là nơi biểu hiện dấu vết rõ ràng nhất gây ra do hoạt động của hành tinh tương ứng. Hành tinh hoạt động càng mạnh, càng nhiều, dấu vết để lại sẽ càng rõ ràng và ngược lại. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với các lý luận về La Hầu, Kế Đô và Nguyệt Bột đã có sẵn trong Chiêm Tinh Phương Tây, cũng không xung đột với các nguyên lý cơ sở để dùng La Hầu, Kế Đô luận đoán Nghiệp Quả. Để xét đoán xem hành tinh hoạt động mạnh hay yếu, thử 4 bài test Đi Tìm Nhân Tố Trội  cho 4 hành tinh tương ứng là cần thiết.

Đã có bài viết riêng về La Hầu, Kế Đô. Ở đây chúng ta chỉ xét đến Nguyệt Bột và Tử Khí.

1. Nguyệt Bột

Ngoài Mean Lilith, Chiêm Tinh Phương Tây còn dùng thêm 1 toạ độ là True Lilith, cách luận giải giống Mean Lilith nhưng tác động nhanh và mạnh hơn, thường dùng trong điểm vận luận hạn.

Cái gọi là Mean Lilith, hay Black Moon Lilith, không phải một hành tinh hay thiên thạch, mà là 1 điểm toán học trên bầu trời. Về mặt Thiên Văn Học, mặt trăng chuyển động quanh trái đất không phải trên 1 hình tròn, mà là 1 elip có 1 tiêu cự là trái đất, tiêu cự thứ 2 là Lilith. Lại vì trái đất luôn quay quanh mặt trời nên quỹ đạo thực sự của mặt trăng cũng tịnh tiến theo trái đất mà phát sinh biến hoá, toạ độ của Lilith trên đường Hoàng Đạo nhìn từ trái đất thường được xác định dựa trên công thức tính viễn điểm của mặt trăng (Lunar Apogee), tức là điểm xa trái đất nhất trong quỹ đạo của mặt trăng, do đó vị trí của nó trên vòng tròn Hoàng Đạo không phải là bất biến mà là 1 chuyển động có chu kì theo chiều ngược kim đồng hồ, khoảng 9 năm thì đi hết 1 vòng. Khi mặt trăng trùng với Lilith trên đường Hoàng Đạo thì nó sẽ ở xa trái đất nhất, cũng tức là có ánh sáng yếu nhất. Tuy nhiên, về bản chất, không nên hiểu về nó như là viễn điểm của mặt trăng, mà nên hiểu là do đặc thù của vị trí quan sát là từ trái đất nên tiêu cự thứ 2 của elip quỹ đạo mặt trăng luôn trùng với viễn điểm của mặt trăng:

Black Moon

Lilith do đó quan trọng hơn điểm đối xứng của nó trên đường Hoàng Đạo, cũng chính là cận điểm của mặt trăng (Lunar Perigee) rất nhiều. Hiện nay có 1 số bạn Việt Nam ngộ nhận cận điểm này với Tử Khí, nhưng chu kì của cận điểm này là tương tự Lilith, vào khoảng 8 năm 10 tháng, trong khi chu kì của Tử Khí nghe đồn là 28 năm, cho nên thực sự là có bắn 7 tầm đại bác cũng chưa tới đâu.

Kinh nghiệm của tôi về việc luận đoán vị trí có mặt Nguyệt Bột trên 1 lá số là, lúc nhỏ chả có gì hot, cho nên, khỏi luận cũng được, nếu ai đó đủ tinh ý, sẽ thấy sinh hoạt ở khu vực đó đặc biệt rõ ràng, nổi bật trong trí nhớ cá nhân hơn so với bất kì khu vực nào khác, nhưng cũng chỉ thế thôi. Không phải ngẫu nhiên mà có Chiêm Tinh Gia bình luận rằng Kế Đô là quá khứ, La Hầu là Tương Lai, còn Nguyệt Bột là hiện tại. Cái gọi là hiện tại của 1 cá nhân, thông thường là hữu hạn, nhưng lại sống động, phức tạp, cụ thể, có thể nghe được, nhìn được, sờ được, cảm nhận được. Nghĩa chân thực nhất của hiện tại, người Phương Đông chúng ta gọi nó là Sở Tri Chướng (sự che mắt sinh ra do chấp trước vào hiểu biết của ta) Một cách nói khác, ở vị trí Nguyệt Bột trên 1 lá số, tầm nhìn của cá nhân là thiển cận nhất. Có câu, ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung. Vấn đề là, mỗi con ếch ở trong 1 cái giếng to nhỏ, nông sâu khác nhau, cái vung trên đầu nó cũng lớn nhỏ khác nhau, xác suất ếch có thể rời giếng cũng khác nhau. Một người sắc sảo có thể nghiệm lý được vị trí Nguyệt Bột của người nào có tầm nhìn thiển cận hơn mình, nhưng không thể nghiệm lý được nó ở người nhìn xa trông rộng hơn mình. Trang Tử nói, "không thể giảng cho ve sầu hiểu thế nào là tuyết, không thể nói cho thiêu thân hiểu cái gì là trăng sao", chính là đạo lý này. Thông thường, cá nhân cũng không tự nghiệm lý được vị trí có Nguyệt Bột trên lá số của chính mình, chúng ta sẽ chỉ nghiệm lý hạn Nguyệt Bột. 

Cái gọi là hạn Nguyệt Bột, nếu đẹp, nó thường được các triết gia ví với hoa trong gương, trăng dưới nước. Nếu xấu, có ngày người ta sẽ nhìn lại nó như thể nhớ về 1 cơn ác mộng. Từ khoá duy nhất đúng trong mọi trường hợp dành cho nó là: "Tất cả rồi cũng sẽ qua." Bạn đang sống trong 1 hiện tại, sau đó hành tinh nhập hạn đem tới cho bạn 1 hiện tại khác, tuỳ theo đặc tính của hành tinh đó, mức độ tương thích của nó với bạn, mức độ tương thích của nó với vị trí có Nguyệt Bột của bạn, dẫn tới việc bạn có thể thích nó hay không, nhưng rồi nó sẽ đi qua, và cuộc đời của bạn không bao giờ còn giống như trước nữa. Tất cả những gì 1 người có thể làm trong hạn Nguyệt Bột là... chấp nhận và ...  thông thường là kêu khóc không chịu, nhưng rồi vẫn phải chấp nhận. Nói chung, nếu bạn muốn đi thì hành tinh nhập hạn ấy dắt bạn đi, nếu bạn không muốn đi thì hành tinh ấy, chậc, hoặc lôi cổ hoặc vừa kéo vừa tha bạn đi (cái này còn phải xem nó có được bao nhiêu thành công lực và được cho bao nhiêu thời gian để dây dưa với bạn). Có người ví hạn Nguyệt Bột với hình tượng của 2 sự thay đổi liên tiếp, đầu tiên là 1 cánh cửa đóng lại, sau đó sẽ có 1 cánh cửa khác mở ra. Có lúc, chúng nó mở và đóng trong hoà bình, có lúc, cửa sẽ sập vào mũi bạn và bạn sẽ phải nổ đom đóm mắt 1 lúc lâu trước khi nhìn thấy cánh cửa mới.

Khi sao nhập hạn đủ mạnh, thời gian quấy quả đủ lâu, nó liền trở thành nhân tố gây ra bước ngoặt cuộc đời. Nhưng trước khi con người đi tới bước ngoặt đó, hiện tại thường chân thật, rõ ràng đến mức người ta không bao giờ tưởng tượng được cái ngày mình sẽ sống tiếp trong 1 hiện tại khác hẳn.

Tuy nhiên, bạn cũng không cần tưởng tượng phóng đại thái quá về tính chất bước ngoặt cuộc đời này. Ví dụ, mùa hè năm 1995, khi transit Mộc Tinh do chuyển động nghịch hành nên tác động qua lại lên 2 vị trí True và Mean Lilith của tôi trong suốt mấy tháng trời liên tiếp. Tôi đã chuyển thành công từ trạng thái vịt cạn sang trạng thái vịt nước, tóm lại là, tôi đã nghiêm túc ngồi suy nghĩ xem làm thế nào để biết bơi trong 1 buổi chiều bằng cách tự đặt nhiều câu hỏi cho mình rồi tự tìm câu trả lời, sau đó, tôi đã áp dụng mớ kiến thức tự có này để tự dạy mình tập bơi thành công. Sau đó, tôi còn cải tạo thành công luôn mấy con vịt cạn bạn tôi. Cách tư duy tôi đã sử dụng trong lúc tìm ra cách học bơi hiệu quả đó, hiện tại tôi vẫn còn dùng để tìm ra nhiều thông tin muốn biết, cần biết khác. 12 năm sau, khi Mộc Tinh đi qua khu vực này lần nữa, tôi gặp triết thuyết Ohsawa và cuốn sách nói về cách thực hành tâm tướng của Namboku Mizuno, đó là những lời dạy, những gợi mở về tư duy đã thay đổi triệt để nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan của tôi. Phản ứng tả ra nghe sôi nổi như vậy là vì Mộc Tinh khá mạnh khi vào cung vị Nguyệt Bột của tôi. Và tất nhiên, nếu nói cho kỹ thì chuyện xoay quanh Mộc Tinh thì không phải chỉ có khía cạnh trí óc.

Những người có sao Thuỷ mạnh trên lá số rất rất rất không thích hạn Nguyệt Bột. Nếu sao tốt nhập hạn, họ sẽ khóc vì hết hạn. Nếu sao xấu nhập hạn, họ khóc vì ...chưa hết hạn. Trường hợp đầu là cảm giác đau khổ vì bị mất đi thứ mà mình quá quan tâm để ý luyến tiếc. Trường hợp 2, có lúc giống như thể bị mổ sống mà không gây mê gây tê vậy. 

Những người có sao Thuỷ yếu thường có chút mơ hồ về hạn Nguyệt Bột của mình. Thông thường, họ chỉ có thể nghiệm được nó khi nhớ lại nó vào độ 10-15 năm sau. Vào lúc mà cái "bước ngoặt" kia sau khi "sai 1 ly" đã đưa họ "đi đủ 1 dặm"

Những người có Nguyệt Bột ở cung 5 và cung 7 là trường hợp đặc sắc nhất, họ rất khó vượt qua hạn Nguyệt Bột 1 cách êm ả, lúc này thì thường bất chấp luôn chuyện Thuỷ Tinh nhà họ mạnh hay yếu. Mà nếu không thế thì cổ nhân đã không đúc kết ra câu: "2 chữ ái tình thật cay đắng"

Tất nhiên, khi các sao hạn lần lượt thăm hỏi vị trí Nguyệt Bột trên lá số nhiều lần rồi thì đó chính là nơi chốn đã xảy ra nhiều chuyện thị phi, cho nên, đến 1 độ tuổi nhất định, khi cung vị Nguyệt Bột đã được ân cần hỏi thăm nhiều lần, vị trí đó trong kí ức cũng trở nên cụ thể, rõ nét, sinh động với những đặc tính kể ra cũng rất chi là... Nguyệt Bột. Một người sẽ nhớ về nó như một vị trí, nơi chốn, đặc tính mà mình hay có cách hiểu, cách tiếp cận, cách đánh giá, nhìn nhận vô cùng thiển cận, nông cạn. Cho tới 1 ngày...


2. Tử Khí

Bản thân Tử Khí không có năng lượng, nó chỉ là 1 điểm tính toán được, có thể coi nó như 1 tấm biển báo trên lá số thông báo về 1 vùng đặc biệt, nơi mà nếu 1 người sử dụng được, họ sẽ gặp may mắn thuận lợi trong cuộc sống. Cách dễ nhất để sử dụng được vị trí có Tử Khí là có hành tinh trên lá số gốc đồng vị với Tử Khí, như vậy ta chỉ cần sử dụng chức năng do hành tinh đó đại diện là đủ. Tuy nhiên, không phải ai sinh ra cũng có số rút trúng cái thăm may mắn này, cho nên khả năng cao hơn là chỉ khi sao hạn vận hành qua toạ độ của Tử Khí, một người mới tập trung vào sinh hoạt tại khu vực có mặt nó và thấy mình liên tục gặp may.

Bình luận chính thức cho cung vị có Tử Khí trên 1 lá số Chiêm Tinh là, may hơn khôn. Nghiệm lý của tôi về vị trí này trên 1 lá số là ngoài "may thế" cũng chỉ có "may quá", ở đó không có thách thức, không có tranh đấu, cho nên cũng không có cơ hội phát triển phẩm chất riêng. Kí ức của 1 người về cung vị có mặt Tử Khí trên lá số của họ, luôn luôn có những đoạn "chó ngáp phải ruồi" hay may mắn khó tin. Những kẻ may mắn nhất thường có hành tinh trên lá số gốc an toạ cạnh Tử Khí, tuy nhiên, nếu khu vực đó trùng với MC hay vùng phụ cận, nó có nhiều nguy cơ biến thành thứ vận may làm người ta thấy kiệt sức, thậm chí sẽ rút ngắn cuộc đời tương tự như trong tác phẩm "Miếng Da Lừa" của Balzac. Việc gặp may như thế nào, còn liên hệ với đặc tính riêng của hành tinh đứng cùng Tử Khí, ví dụ Mặt Trăng, thường làm 1 phụ nữ trở nên đặc biệt may mắn khi bắt đầu làm mẹ. Ngoài ra, do khó phát triển sâu sắc các phẩm tính riêng, biểu hiện của cá nhân ở cung vị có mặt Tử Khí thường có chút gì đó vô cùng thiếu muối, có thể đến trình độ thiếu muối mãn tính. Ở các lá số thông thường, khi có hành tinh nhập hạn Tử Khí, tuỳ theo tốc độ riêng của chúng là nhanh hay chậm, chủ lá số sẽ có 1 quãng thời gian may mắn kéo dài từ vài tiếng đồng hồ, đến vài ngày, vài tháng, thậm chí, vài năm. 

Trong so sánh tương quan với cả lá số, cung vị của Tử Khí giống như 1 ốc đảo trong sa mạc, nơi con người ghé vào nghỉ ngơi dưỡng sức trước khi tiếp tục cuộc hành trình, đi tới cái đích đã định của mình. Thế nên, theo tôi việc nghỉ ngơi này là có giá trị và cần thiết, nhưng nên được tiến hành có chừng mực, giới hạn hợp lý thì mới tốt. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp 1 người được phép dành cả cuộc đời cho công tác nghỉ ngơi thư giãn này, ý tôi đang nói về những người có hành tinh cá nhân đồng vị với Tử Khí trên lá số gốc ấy mà, nghe đồn kiếp trước họ đã sống, chiến đấu, lao động rất vất vả và đấy là phần thưởng. Anyway, không nên quấy rầy những linh hồn đang cần thời gian nghỉ ngơi, cho nên thấy họ là tôi lập tức đi đường vòng. Tất nhiên, tránh họ không dễ như tránh 1 người đang chợp mắt nghỉ ngơi trên chiếc võng dưới những tán cây. Vì họ thuộc trường phái ... "mộng du". Cũng đừng hiểu lầm là họ đáng ghét hay gì đó. Chỉ vì chuyện tệ hại nhất là họ tưởng họ cũng bình bình phàm phàm như tất cả chúng ta. Rằng giống như chúng ta, đời họ cũng có khó khăn, gian khổ, cũng có nỗi đau, cũng phải chịu đựng đủ thứ trái ngang đến độ người giận thần oán. Đừng hiểu lầm, tôi không nói là họ không thông minh, không sắc sảo, không khôn ngoan, nhưng trên đời có 1 số loại trí tuệ, kinh nghiệm, hiểu biết chỉ phát sinh sau khi con người đã đủ nhọ, loại trí tuệ đó chắc chắn ở ngoài tầm với của họ. Và mỗi lần họ gato với mấy cái thứ hiểu biết dạng đó của tôi và sau đó, hoặc muốn tôi dạy cho họ, hoặc muốn tỏ ra trên cơ tôi, thực sự trông họ lúc đó rất ngu ngốc.

Họ không phải đối tác tốt, vì đối tác tốt sẽ cùng ta chung hưởng vinh nhục, muốn ta hiểu cho chỗ khó của họ, và họ cũng thông cảm với chỗ khó của ta. Người có hành tinh cá nhân đồng vị Tử Khí trên lá số gốc về căn bản không có khó khăn thực sự. Và mỗi lần họ bộc bạch về 9x9, 81 nạn mà họ từng gặp trên đường đời, bà con thực sự rất muốn nói: "Trời, tưởng gì?" Hoặc: "Rồi sao?" "Con nhà giàu dẫm phải gai mùng tơi hả?" Hay tệ hơn nữa: "Có mùi sướng quá hoá rồ!" Họ cũng tổn thương như ai khi ta nói họ có lớn mà không có khôn, rằng họ có thể có nhiều thứ thật nhưng trí tuệ và các phẩm chất tinh thần của họ là quá kém cỏi, trì trệ, không phát triển. Mà làm những chuyện chỉ trích như thế có thể dẫn tới tranh chấp. Chuyện lúc đó càng tệ hơn vì... họ càng không phải đối thủ tốt. Sống trên đời này, bạn có thể đọ sức, bạn có thể đua tài, nhưng đọ vận may với người được Tử Khí phù hộ thì ... bạn đúng là đồ ngu, không ngu thì cũng thừa hơi hay quá rảnh gì đó.

Trong hạn Tử Khí, gần như có thể nói bạn làm gì cũng có vẻ đúng, hay nói đúng hơn, bạn chỉ cần làm đại và kết quả của mấy chuyện làm đại đi ấy kiểu gì cũng tốt, thậm chí tốt đến không thể tin được. Một ví dụ. Trong thời gian Solar arc Moon của tôi gặp Tử Khí, có lần tôi ngồi chơi 3 cây ở nhà, có ván, bài của tôi cộng lại được tận... 1 điểm, vậy mà 3 người còn lại còn bị 1 điểm ở mức dưới cơ tôi nên vẫn thua. Các ván khác bốc được bài đẹp thì càng khỏi nói. Dì tôi tý nữa thì phát điên. Những chuyện may mắn ầm ầm đổ bộ khác thì càng không cần phải nói. Tuy nhiên, như tôi đã nói, hạn Tử Khí thường xảy ra ở khu vực rất thiếu tính chất trí tuệ, cũng như hiểu biết, kinh nghiệm sống và khả năng hoạch định chiến lược lâu dài. Do vậy, người gặp may mắn nhỏ trong hạn Tử Khí kiểu như không học mà qua, được đi du lịch miễn phí, mối làm ăn tốt dắt đến tận cửa ... thì nhiều, người dựa vào nó để đổi đời thì vô cùng hiếm. Thông thường, tôi thấy các trường hợp tốt nhất là Tử Khí ở Nhân Mã hoặc cung 9, thành quả có được sau khi nhập hạn rất dễ duy trì và phát triển. Khi thời gian may hơn khôn của 1 người chấm dứt, nhịp điệu cuộc sống của họ trở lại như cũ với tất cả những vấn đề, nan đề, rắc rối như cũ. Mà theo tôi, cũng nên như vậy, nếu ai cũng biết phải làm gì với vận may của mình trong lúc không biết mình nên làm gì cho thế giới thì trái đất chắc bị huỷ diệt chỉ sau 1 tuần quá.

Tất nhiên, mỗi người nhận được vận may khi sinh hoạt trong nơi chốn, lĩnh vực khác nhau, cụ thể là lĩnh vực do cung vị nơi Tử Khí trú đóng đại diện. Chúng có thể là mối quan hệ đem lại may mắn, thông tin đem lại may mắn, nơi chốn mang lại may mắn, công việc mang lại may mắn ...v.v... Cái này mỗi người mỗi khác, chứ không phải vào hạn Tử Khí thì đánh đề tất trúng, đoán lô lô tất đúng. Ví dụ, Tử Khí cung 6 gặp may lớn đến đâu là phụ thuộc khả năng đoán ý người khác cũng như khả năng, kinh nghiệm trong việc vừa chiều được ý người khác, vừa đạt được mục đích riêng của mình. Tử Khí cung 7 thường tìm ra những mối quan hệ đem lại may mắn, nhưng nếu bản thân không biết cách bồi đắp, duy trì những mối quan hệ mình có cho tốt đẹp thì chắc cũng sớm quay lại với cái máng lợn cũ.

Nói chung, cung vị Mộc Tinh trên lá số là nơi 1 người đi tìm vận may. Còn cung vị Tử Khí trên lá số mới là nơi 1 người tìm thấy vận may của mình, dù họ có muốn hay không. Thứ tự của các hành tinh trên 1 lá số và tốc độ vận hành của chúng trong vận hạn quyết định số lần xảy ra và thời lượng xảy ra của mỗi hạn Tử Khí. Ngoài ra, còn nhiều nhân tố khác giúp nhận định về hiệu quả sử dụng hạn Tử Khí của 1 người. Vậy nên, có người có vẻ rất hay gặp may, có người chờ mốc mỏ mới thấy vận may mới tới 1 lần. Có người chỉ cần vài tiếng đồng hồ may mắn mỗi tháng cũng làm được 1 cái gì đó đáng kể, có người gặp may liên tiếp hàng mấy tháng trời cuối cùng vẫn chỉ quay về với cái máng lợn cũ. Có người sống dễ dàng thuận lợi bất chấp tố chất bất tài của bản thân, đến độ làm người khác ganh tỵ đỏ mắt mà vẫn luôn mồm kêu ca mình xui xẻo. Có người chỉ cần 1 lần tranh thủ vận may kéo dài hiếm hoi cũng đủ để đưa đời mình sang trang mới. Thực ra, nhân tố con người quyết định rất lớn trong việc sử dụng hiệu quả 1 hạn Tử Khí.


Đọc thêm, các bài có độ hack não tương tự:



Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Từ điển Chiêm Tinh Học

Cắt nghĩa một số thuật ngữ Chiêm Tinh mà nhiều bạn thắc mắc. Sẽ update thường xuyên. Ai có thắc mắc về thuật ngữ cũng có thể comment ở dưới. Bạn có thể đọc thêm bài về Các loại lá số Chiêm Tinh và Cấu trúc lá số Chiêm Tinh để biết thêm chi tiết. Mọi trích dẫn không dẫn lại nguồn từ blog quybaba.blogspot.com đều là trái phép.


Lịch thiên văn: Là một dạng bảng biểu gồm các cột liệt kê tọa độ của các hành tinh trên 12 cung Hoàng đạo theo thời gian. Tra cứu lịch thiên văn là 1 kỹ năng quan trọng nếu muốn thực sự học và hiểu sâu về Chiêm Tinh

Các dạng lá số thường gặp

Cung:

Cung Hoàng Đạo: (Zodiac sign) Là một khái niệm lịch pháp, được tính toán bằng cách lấy điểm Xuân Phân làm 0 độ cung Bạch Dương, sau đó theo chiều ngược kim đồng hồ chia vòng tròn Hoàng Đạo thành 12 phần bằng nhau, mỗi phần chiếm 30 độ. Không liên quan tới các chòm sao trên bầu trời. Tên tiếng anh của nó Zodiac sign không diễn là 1 cung, dù là theo nghĩa dây cung, cánh cung hay ngôi nhà của tinh quân (theo cách hiểu của tử vi đẩu số) mà có nghĩa là dấu hiệu (để nhận dạng một số tính chất nào đó)

Vòng tròn Hoàng Đạo: (the zodiac) Hoàng đạo nghĩa là đường đi của mặt trời. Đây là khái niệm thiên văn miêu tả quỹ tích mà mặt trời vẽ ra trên bầu trời, là một đường tròn khổng lồ trên bầu trời lấy trái đất làm tâm chạy từ Đông lên đỉnh trời sang Tây. Nhìn từ trái đất, các hành tinh và mặt trời, mặt trăng đều chuyển động dọc theo đường tròn này theo chiều từ Đông sang Tây, trên lá số, chiều đi từ Đông sang Tây này được quy ước là chiều ngược kim đồng hồ.

Cung địa bàn: (house) Các trang khác cung cấp bài vở về Chiêm Tinh bằng tiếng Việt gọi là nhà. Là môi trường, bối cảnh chuyên biệt, nơi diễn ra 1 nhóm các hoạt động cụ thể mà mỗi cung địa bàn quy ước.

Cung đêm: Là các cung địa bàn từ 1 đến 6, khi mặt trời trú vào các cung này tương ứng với thời gian đêm tối nên chúng còn có tên chung là các cung đêm.

Cung ngày: Là các cung địa bàn từ 7 đến 12, khi mặt trời trú vào các cung này tương ứng với thời gian ban ngày nên chúng còn có tên chung là các cung ngày.

Bán cầu Đông: Là các cung địa bàn từ 1 đến 3 và từ 10 đến 12, là các cung nơi mặt trời mọc dần lên cao

Bán cầu Tây: Là các cung địa bàn từ 4 đến 9, là các cung nơi mặt trời lặn dần xuống thấp.


Hành tinh và nguồn sáng:

Sao: Khái niệm tôi dùng khi gọi chung cả nguồn sáng (luminary) tức mặt trời, mặt trăng lẫn hành tinh (planet)

Hành tinh cá nhân: (personal planets) Bao gồm mặt trời, mặt trăng, sao thủy, sao kim, sao hỏa. Đại diện cho các chức năng, hoạt động có ý thức của một cá nhân.

Hành tinh xã hội: (social planets) Bao gồm sao Mộc và sao Thổ. Đại diện cho ý thức xã hội của 1 cá nhân.

Hành tinh thế hệ: (trans saturn planets) Bao gồm sao Thiên Vương, Hải Vương, Diêm Vương. Đại diện cho sinh hoạt hạ ý thức của một cá nhân. Vì các hành tinh này chuyển động rất chậm trên đường Hoàng Đạo nên cung Hoàng đạo chứa nó trở thành đặc trưng chung trên các lá số của rất nhiều người sinh vào khoảng 7-15 năm liên tiếp nhau, tức là tương ứng với cả 1 thế hệ.

Hành tinh trội: (dominant planet) Là hành tinh trên bản đồ sao có 1 chữ dom nhỏ đứng cạnh. Theo định nghĩa, hành tinh trội là hành tinh có hoạt động mạnh nhất trên lá số. Nếu bạn đọc tài liệu chiêm tinh bằng tiếng Anh, có thể bạn sẽ thấy những cụm từ như mẫu người Hỏa tinh (martian), mẫu người Kim tinh (venusian), mẫu người Hải Vương Tinh (neptunian)... Đấy là khi tài liệu ấy mô tả một dạng tính cách theo hành tinh trội thay vì cung Hoàng đạo có chứa AC, mặt trời hay mặt trăng. Có nhiều cách khác nhau để tính toán hoạt động xem hành tinh nào trội nhất trên lá số. Chúng thường dựa vào số góc chiếu, loại góc chiếu, vị trí hành tinh trên các cung Hoàng đạo và cung địa bàn, mức độ hoạt động của cung hoàng đạo và cung địa bàn mà hành tinh ấy làm chủ tinh trên lá số...

Tinh vận: (progressed planets) Là tọa độ sau khi xê dịch của các sao so với vị trí trên lá số gốc theo nguyên tắc quy đổi 1 ngày bằng 1 năm. Tức là tọa độ của tinh đẩu sau 1 ngày so với tọa độ gốc, sẽ biểu hiện trạng thái tâm sinh lý biến hóa của chủ lá số ứng với 1 năm sau khi chào đời. Thông thường ta xét Nhật Tinh Vận, Nguyệt Tinh Vận, Thủy Tinh Vận, Kim Tinh Vận và Hỏa Tinh Vận, các tinh vận khác có phạm vi sử dụng rất hạn chế.

Khách tinh: (transit) Là tọa độ thật trên vòng Hoàng Đạo của các hành tinh và nguồn sáng trên bầu trời vào thời điểm ta cần xem xét. Thông thường ta xem xét lưu Mộc tinh, lưu Thổ tinh, lưu Thiên Vương, lưu Hải Vương, lưu Diêm Vương. Các sao lưu khác có tác động rất yếu và ít giá trị sử dụng.

Chủ tinh: (ruler planets) Là một khái niệm Chiêm Tinh, quy ước rằng mỗi hành tinh là chủ quản quản chiếu đại diện cho loại năng lượng đặc thù của một cung Hoàng Đạo. Chi tiết xem hình minh họa:
Chủ tinh của cung địa bàn có 2 cách tính. Cách 1: lấy chủ tinh của cung Hoàng đạo nằm ở nóc cung địa bàn tương ứng làm chủ, khi đó hành tinh là đại diện cho năng lượng Hoàng Đạo, tức là dùng để xem xét cá tính. Cách 2, tính chủ tinh theo hình vẽ trên, lấy vị trí của Bạch Dương làm cung số 1, theo chiều ngược kim đồng hồ đánh số đến 12, khi đó hành tinh chỉ đại diện cho cung địa bàn, dùng để xem xét hành vi và sinh hoạt cụ thể.

Nghịch hành: (retrograde) Là hiện tượng các hành tinh chạy giật lùi theo chiều kim đồng hồ trên đường Hoàng đạo khi quan sát từ trái đất. Hiện tượng này xảy ra là do tương quan vận tốc giữa trái đất và các hành tinh khi cùng quay quanh mặt trời. Mặt trời và mặt trăng không bao giờ nghịch hành. Moon node luôn luôn nghịch hành. Kí hiệu trên lá số dành cho hành tinh đang nghịch hành là một chữ "r" nhỏ bên cạnh biểu tượng hành tinh.

Bất động (Station) Là hiện tượng xuất hiện ở đầu và cuối mỗi giai đoạn nghịch hành, trước khi từ thuận hành chuyển thành nghịch hành (R: retrograde), và khi từ nghịch hành trở lại thuận hành (D: direction) sẽ có 1 khoảng thời gian hành tinh trông như đang đứng yên trên bầu trời. Khi một hành tinh bất động, trên lá số sẽ có chữ "s" nhỏ bên cạnh biểu tượng của nó.

Hồi vị: (planet return) Hiện tượng transit của một hành tinh đi qua vị trí của chính nó trên lá số gốc.

Vượng (Exaltation) Vị trí Hoàng đạo cung cấp loại năng lượng thuận lợi nhất để một hành tinh biểu hiện các chức năng của mình.

Tướng (Ruler) Vị trí Hoàng đạo của loại năng lượng mà hành tinh làm chủ, khá thuận lợi để hành tinh biểu hiện các chức năng của mình.

(Detriment) Vị trí Hoàng đạo đối nghịch với vị trí tướng trên vòng tròn Hoàng đạo, là loại năng lượng có tác dụng ức chế hoạt động của hành tinh mạnh nhất.

Tử (Fall) Vị trí Hoàng đạo đối nghịch với vị trí vượng trên vòng tròn Hoàng đạo, là loại năng lượng tệ nhất mà hành tinh có thể dùng để biểu hiện các chức năng của mình.


Các điểm toán học trên lá số

Là các vị trí có ý nghĩa giải đoán nhưng không phải hành tinh có thật trên bầu trời mà chỉ xuất hiện theo các tính toán thuần túy

North Node (La Hầu) hiện nay có 1 số nguồn dịch là Long Thủ thường được xem và luận như mặt trời, nhưng yếu hơn. Nó chỉ ra loại năng lượng mà cá nhân muốn học cách sử dụng nhất, luôn hướng tới việc sử dụng nó 1 cách có ý thức.


South Node (Kế Đô) Vị trí đối xứng với La Hầu, 1 số nguồn dịch là Long Vĩ, thường được xem và luận như mặt trăng, nhưng yếu hơn. Nó chỉ ra loại năng lượng mà cá nhân quen thuộc nhất và hay sử dụng nó một cách tự nhiên vô ý thức, những Chiêm Tinh Gia tin vào Nghiệp cho rằng điểm này diễn tả thói quen từ kiếp trước của 1 cá nhân.

Các Chiêm Tinh gia theo trường phái tâm lý học của Carl Jung rất coi trọng 2 điểm này. Xem bài viết chi tiết hơn về 2 điểm này trong mục tứ dư.

Part of Fortune Nó chỉ ra loại năng lượng đem lại cảm giác hài lòng sâu sắc nhất cho cá nhân khi sử dụng. Cảm giác hài lòng ở đây là dạng cảm giác thành tựu có thể hiểu như 1 sự đắc ý, hay cái cảm giác tự giơ ngón tay cái lên khen mình 1 câu mỗi khi cá nhân sử dụng được năng lượng có chứa Fortuna theo hướng tích cực. Do vậy, điểm này rất có ý nghĩa khi nghiên cứu lá số danh nhân và hay gắn với vấn đề giải đoán năng khiếu. Ở lá số người bình thường, cá nhân ít cảm thấy sự tồn tại của điểm này.


Mean Lilith và True Lilith (h13) (Nguyệt Bột) Mean là tọa độ lý tưởng, còn true là tọa độ thực tế. Lilith hay còn có tên Nguyệt Bột trong tinh mệnh học, trong trường hợp này là 1 điểm được tính toán ra (khác với Dark moon Lilith và thiên thạch Lilith là 2 vật thể) Cụ thể, do mặt trăng chuyển động quanh trái đất trên một quỹ đạo elip có 2 tiêu cự, trong đó một tiêu cự là trái đất, tiêu cự thứ 2 chính là 1 tọa độ trong không gian đặt tên là Lilith (Nguyệt Bột). Lilith có ý nghĩa không rõ ràng khi xét đoán trên lá số gốc nhưng có ảnh hưởng rất mạnh trong vận hạn (progressed) Key word để hiểu nó là, trước khi ông trời mở cho bạn 1 cánh cửa mới, sẽ đóng sầm cánh cửa mà bạn đang hý hửng muốn đi qua nhất 1 cách cực kì thô bạo trước mũi bạn. 

Lưu ý: Lilith trong lịch thiên văn ephemeris cho sẵn là mean Lilith. Cách giải đoán giống true Lilith, nhưng cá nhân tôi thấy nó không phũ bằng, chỉ dai hoi hơn thôi.

Vertex còn có tên riêng là Destiny Gate (cánh cổng định mệnh) là một tọa độ nổi bật trên lá số khi xem xét vận hạn, nó đại diện cho ác quả hay món nợ cá nhán phải trả để cân bằng gánh nặng nghiệp quả riêng trong kiếp hiện tại. Vertex chỉ nằm ở bán cầu Tây, cho nên nó thuộc về hiện thực khách quan. Là thứ cá nhân muốn nhận thì được nhận, không muốn nhận cũng phải nhận.

Tử Khí không có trong hệ thống của Chiêm tinh Tây phương, nhưng được dùng rộng rãi trong Tinh Mệnh Học của Trung Hoa. Nghiệm lý thực tế cho thấy tác động của nó có tồn tại. Nó là vận may theo nghĩa thuần túy nhất của từ này.

Một số cấu trúc Chiêm Tinh:

Nối mỗi hành tinh với tâm lá số, góc giữa 2 hành tinh tạo ra ở tâm lá số gọi là góc chiếu (aspect), có 1 số trị số góc đặc biệt sẽ tạo ra các cấu trúc giữa các hành tinh. Góc chiếu này cho phép có 1 sai số nhất định gọi là độ lệch góc (orb) Muốn tìm hiểu kỹ, tìm đọc Bil_Tierney_-_Dynamics_Of_Aspect_Analysis

Tam hợp (trine) Góc chiếu 120 độ, độ lệch góc cho phép có thể lên đến 5 hay 7 độ. Có ý nghĩa tương hỗ năng lượng.

Lục hợp (sextile) Góc chiếu 60 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 3 hay 5 độ. Có ý nghĩa tương hỗ năng lượng nhưng hơi yếu.

Bán lục hợp (semisextile) Góc chiếu 30 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 1 hay 3 độ. Theo chiều ngược kim đồng hồ, bổ trợ cho năng lượng theo sau và hạn chế năng lượng ở trước.

Xung (opposite) Góc chiếu 180 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 5 hay 7 độ. Có ý nghĩa bù khuyết, nhưng đồng thời cũng là đối kháng.

Đồng vị (conjunc) Góc 0 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 5 hay 10 độ. Có ý nghĩa tương hỗ hoặc khắc chế tùy thuộc hành tinh tham gia góc chiếu, tạo ra ảnh hưởng cùng lúc không thể tách rời nhau.

Bất đồng vị (inconjunc) Góc 150 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 3 hay 5 độ. Ý nghĩa là chả liên quan, hoạt động ở vị trí này khiến vị trí kia trở thành ngoài luồng.

Vuông góc (square) Góc 90 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 5 hay 7 độ. Có ý nghĩa khắc chế, cần thời gian và nỗ lực để 2 bên tìm tiếng nói chung và tương hỗ cho nhau

Bán phương (semisquare) Góc 45 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 2 hay 5 độ. Có ý nghĩa xung khắc yếu.

Tam bán phương (SesquiQuadrate) Góc 135 độ, độ lệch góc cho phép lên đến 2 hay 5 độ. Có ý nghĩa xung khắc yếu. 

Góc Q (quintile) Góc Q đúp (biquintile/bQ) Góc 72 độ và 144 độ, có ý nghĩa là thiên phú bẩm sinh trong việc cho 2 năng lượng làm việc chung với nhau.

Các tổ hợp thường gặp:

Tam giác lớn (grand trine) Là một tam giác đều lớn tạo ra khi nối vị trí của 3 hành tinh trên lá số, tạo ra do 3 góc tam hợp. Là dấu hiệu mạnh về sự hợp tác thuận lợi giữa 1 nhóm tối thiểu là 3/10 hành tinh.
Con diều (kite) Gồm 1 tam giác lớn và 1 tam giác cân đối đỉnh tạo từ 2 góc lục hợp. Đỉnh đối của 2 tam giác này tạo thành góc xung. Tổng thể nhìn như 1 con diều. Là dấu hiệu mạnh về sự hợp tác thuận lợi của nhóm tối thiểu là 4/10 hành tinh.
Chữ T (T square) Gồm 2 góc vuông và 1 góc xung, nhìn trên lá số giống như 1 tam giác vuông cân. Là dấu hiệu mạnh về sự xung khắc lẫn nhau giữa 1 nhóm ít nhất 3/10 hành tinh
Đại thập tựChữ thập lớn (grand cross) Gồm 4 góc vuông và 2 góc xung, nhìn trên lá số giống như 1 hình vuông màu đỏ có 2 đường chéo. Là dấu hiệu mạnh về sự xung khắc lẫn nhau giữa 1 nhóm ít nhất có 4/10 hành tinh.
Ngón tay định mệnh (finger of fate, Yod) Gồm 2 góc 150 độ và 1 góc 60 độ, nhìn trên lá số là 1 tam giác cân có cạnh đáy rất hẹp, hơi giống 1 ngón tay. Khi đẩy mạnh hoạt động của góc 60 độ tức hai đỉnh kể cạnh đáy thì cấu trúc này sinh ra hoạt động bất ngờ ở đỉnh đối diện cạnh đáy. Vì nó có tính chất biến hóa bất ngờ nên gọi là ngón tay của định mệnh.


Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Cung Sóc và Lược sử Chiêm Tinh



Khi mặt trời mọc, ánh sáng mạnh mẽ của nó sẽ làm tất cả ánh sáng của trăng sao mờ nhạt đi, và do hiệu ứng quang học này, vào ban ngày ta sẽ không nhìn thấy mặt trăng và các vì sao nữa mặc dù chúng có thể vẫn ở ngay trên đầu. Sóc là thời điểm mặt trăng ở khu vực nằm giữa mặt trời và trái đất, ngày có sóc, hay còn gọi là ngày trăng non là ngày trăng mọc lên và lặn xuống cùng mặt trời, tức là mặt trăng luôn ở nửa đón sáng của trái đất, do đó ta có đêm không trăng, ngoài ra, còn 1 lý do nữa là khi đó, phần bề mặt của mặt trăng hướng về trái đất không nhận được ánh sáng từ mặt trời. Tôi không nói là khi đó trái đất, mặt trăng và mặt trời thẳng hàng, vì nếu sự kiện đó xảy ra thật thì ta sẽ có 1 hiện tượng khác là nhật thực. Tôi sẽ quay lại với đề tài này sau, khi viết về La Hầu và Kế Đô.

Ở hình minh họa dưới, Earth là trái đất, phần phơi sáng là ban ngày, có cả mặt trời (the Sun) và New Moon (Sóc), tức là đêm không có trăng. Phần khuất sáng là ban đêm, khi Full Moon (trăng tròn) thì toàn bộ bề mặt hướng về trái đất của mặt trăng đều nhận được ánh sáng của mặt trời.


Khi lấy đường hoàng đạo, hay đường đi của mặt trời làm chuẩn, người xưa đã phát hiện 12 chòm sao có hình dáng và độ sáng ổn định phân bố dọc theo đường hoàng đạo này. Nếu tưởng tượng đường hoàng đạo như 1 hình tròn 360 độ, chiêm tinh học Phương Tây đặt giả thuyết lý tưởng bằng cách lấy mốc xuân phân của 1 năm làm điểm bắt đầu, chia đường hoàng đạo thành 12 phần bằng nhau mỗi phần 30 độ, theo chiều ngược kim đồng hồ, lần lượt 12 cung hoàng đạo là:

Dương Cưu (Aries) ------Kim Ngưu (Taurus) --------Song Tử (Gemini) 
Cự Giải (Cancer) -------------Sư Tử (Leo)---------Xử Nữ (Virgo)
Thiên Bình (Libra)--------------Bò Cạp (Scorpio)--------Nhân Mã (Sagittarius)
Ma Kết (Capricorn)---------Bảo Bình (Aquarius)----------Song Ngư (Pisces)


Đã từng có thời (độ 2000 năm trước) điểm xuân phân đích thực trùng với điểm bắt đầu của chòm sao Aries có thật trên bầu trời, nhưng 12 chòm sao mỗi năm lại dịch chuyển đi 1 chút so với mốc xuân phân trên trái đất. Từ đó, chiêm tinh học đã thể hiện rõ sự phân hóa. Trong khi chiêm tinh Ấn Độ vẫn trung thành với các chòm sao thật trên bầu trời thì chiêm tinh Tây Phương lại trung thành với lịch tiết trên mặt đất. Hiện nay, 2 hệ thống đã lệch nhau khoảng xấp xỉ 1 cung 30 độ. Một mặt trời Bò Cạp trên hệ thống này lại trở thành mặt trời Nhân Mã trên hệ thống kia trong 99% trường hợp.

Chiêm tinh Ấn lấy các chòm sao có thật làm tiêu chuẩn, đã bổ sung 1 hệ thống phụ bằng cách chia nhỏ hơn nữa 12 cung hoàng đạo thành 27 cung, còn gọi là 27 chòm sao, nhấn mạnh tác dụng chiếu mệnh của các hằng tinh (fixed stars), nói chung đi theo thuyết thiên mệnh. Khi du nhập Trung Hoa, người Hoa đã thêm chòm sao Ngưu vốn không cố định vào hệ thống 27 chòm sao này, thành 28 chòm, gọi là nhị thập bát tú. Có lẽ để chia 4 phương Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước cho nó cân, mỗi góc 7 chú, ngoài ra không có âm mưu thâm độc nào khác. Bài học cho chúng ta ở đây là, tinh là sao, còn tú là chòm sao, hết chuyện.

Ngược lại, chiêm tinh Tây phương nhấn mạnh các hành tinh trong thái dương hệ (planets) và các nguồn sáng (luminaries) tức mặt trời và mặt trăng. Đó là những chỉ dấu cho cá tính, nhân cách, cảm xúc, tư duy, thẩm mỹ, hành động, niềm tin, óc thực tế, khao khát tự do, óc mơ mộng... Những chỉ dấu cho cá nhân này được nhuộm màu lại theo vị trí của nó trên đường Hoàng Đạo, và tọa độ Hoàng Đạo này, nói là thuộc cung này cung kia trong 12 cung Hoàng Đạo, thực chất hoàn toàn xác định theo mốc xuân phân, tức là vị trí tương quan giữa mặt trời và trái đất. Cũng tức là nhấn mạnh chu kì của các hành tinh đối ứng với lịch tiết của mặt đất. Nhấn mạnh vào đặc tính của cá nhân và nhịp sống cụ thể, sống động của hiện tại.

Cơ sở để xác định 27 chòm sao phân bố dọc theo đường Hoàng Đạo theo chiêm tinh Ấn Độ chính là mặt trăng. Mặt trăng đi hết 1 vòng quanh trái đất mất khoảng 27 ngày. Chiếu lên trời, ta có 27 cung của, ... thôi thì cứ tạm gọi là Nhị Thập Bát Tú đi, chính là 27 khu vực của mặt trăng trên bầu trời. Dựa vào việc mặt trăng đang ở cung nào của Nhị Thập Bát Tú, tròn hay khuyết, non hay già, ta đã có thể xác định gần đúng ngày tháng âm lịch. Mỗi cung trong Nhị Thập Bát Tú có biểu tượng là 1 con vật, tên gọi của 12 tháng âm lịch trong lịch pháp phương Đông, chính là tên của con vật đại diện cho cung mà mặt trăng cư ngụ vào ngày rằm tháng đó. Tuy nhiên, đó là nói lý thuyết của 2000 năm trước, khi mà điểm xuân phân còn trùng với đầu chòm sao Aries trên bầu trời. Nếu ngày nay mà các bác làm lịch lại ngỏng cổ nhìn Nhị Thập Bát Tú để quyết đâu là tháng Tý, đâu là Tháng Sửu thì tháng Giêng sẽ không còn là tháng ăn chơi nữa và bà con nhất định loạn óc, chả biết ngày nào là ngày ra đồng. Âm Dương Lịch hiện nay được tính toán theo mốc Đông Chí để xác định ngày sóc nào là ngày sóc đầu tiên của 1 năm mới, cũng là cách so tương quan mặt trời, trái đất để chọn ngày đầu năm, thực chất chỉ khác việc dùng điểm Xuân Phân làm mốc của Phương Tây một sợi tóc. Tóm lại, cũng đã ly khai hệ thống của Chiêm Tinh Ấn Độ từ lâu.


Quay lại với ngày sóc, tuy mặt trăng quay quanh trái đất chỉ mất có 27 ngày, nhưng để kết thúc 1 chu kì tròn khuyết của mặt trăng hay còn gọi là 1 tuần trăng. Mặt trăng cần khoảng 2 ngày rưỡi để gặp mặt trời lần nữa. Do đó một tháng âm lịch chính xác sẽ dài khoảng 29 ngày rưỡi. Cũng do đó, điểm sóc kế tiếp được tạo ra cách điểm sóc cũ khoảng 29 độ thường sẽ ở cung Hoàng Đạo kế tiếp tính theo chiều ngược kim đồng hồ. Theo đó, 1 năm thông thường sẽ có 12 lần Sóc hay trăng non, năm nhuận theo lịch mặt trăng sẽ có 13 lần Sóc, trong đó, có 2 lần Sóc rơi vào cùng một cung Hoàng Đạo, mỗi lần Sóc là mốc đánh dấu bắt đầu cho 1 tháng âm lịch mới. Ở đây, tử vi và chiêm tinh tìm được một tiếng nói chung thú vị. Một trong các dấu hiệu để xác định cá tính và tính tình một cá nhân của chiêm tinh là New Moon Sign, tôi dịch là Cung Sóc, thực chất là một dạng mô tả cá tính và tính tình một người theo tháng sinh âm lịch nếu nhìn nhận theo góc độ của Tử Vi.

Nhiều người tìm hiểu song song tử vi và chiêm tinh đã nhận xét mẫu người Mệnh Không Thân Kiếp trong tử vi, tương ứng với tháng 10 âm lịch rất giống với các mô tả về mẫu người Bò Cạp trong chiêm tinh Phương Tây. Thực ra không riêng gì mẫu người này, nếu đối chiếu tháng sinh âm lịch với các cung Hoàng Đạo, ta sẽ thấy nhiều điều thú vị, tôi không đi vào chi tiết mà chỉ điểm qua 1 vài nét gọi là sơ lược, có thể sẽ có một bài so sánh chi tiết hơn sau này:


Dương Cưu (Aries) ---------Tháng 3 (Văn Xương cư Di, Địa Không cư Tật)
Kim Ngưu (Taurus) ---------Tháng 4 (Văn Xương cư Nô, Địa Không cư Di)
Song Tử (Gemini) ---------Tháng 5 (Văn Xương cư Quan, Địa Không cư Nô)
Cự Giải (Cancer) ---------Tháng 6 (Văn Xương cư Điền, Địa Không cư Quan)
Sư Tử (Leo)---------Tháng 7 (Văn Xương cư Phúc, Địa Không cư Điền)
Xử Nữ (Virgo)---------Tháng 8 (Văn Xương cư Phụ Mẫu, Địa Không cư Phúc)
Thiên Bình (Libra)---------Tháng 9 (Văn Xương cư Mệnh, Địa Không cư Phụ Mẫu)
Bò Cạp (Scorpio)---------Tháng 10 (Văn Xương cư Bào, Địa Không cư Mệnh)
Nhân Mã (Sagittarius)---------Tháng 11 (Văn Xương cư Phối, Địa Không cư Bào)
Ma Kết (Capricorn)---------Tháng 12 (Văn Xương cư Tử Tức, Địa Không cư Phối)
Bảo Bình (Aquarius)---------Tháng 1 (Văn Xương cư Tài Bạch, Địa Không cư Tử Tức)
Song Ngư (Pisces)---------Tháng 2 (Văn Xương cư Tật, Địa Không cư Tài Bạch)


Tạm hiểu Địa Không là cảnh báo nguy hiểm, còn Văn Xương có nghĩa tốt lành. Tôi không nêu hết các trường hợp, nhưng các bạn có thể tự tham khảo các nguồn bài khác về 12 cung Hoàng Đạo và suy ngẫm cho rộng ra.

Tính tình của Dương Cưu thường nóng nảy, bộp chộp, thiếu kiềm chế. Người có Không Kiếp ở cung Tật Ách cũng thế.

Cự Giải thường vác rắc rối ở nhà riêng tới nơi làm việc, công tư không phân minh. Người có Địa Không cư Quan thì dễ ở cảnh sự nghiệp bấp bênh.

Slogan của Sư Tử là cuộc sống không thể thiếu tình yêu. Cao thủ Đài Cảng là bác Vương Đình Chi đã tuyên bố rất hùng hồn là văn tinh cư Phúc thì đời sống tình cảm rất chi là nhiều chương hồi trường đoạn. Còn Địa Không cư Điền? Sư Tử nổi tiếng là hào phóng và ưa phỉnh, cầm tiền không chặt tay. Nếu bạn hiểu Điền Sản chính là tư tưởng về các quyền sở hữu thì bạn đi đúng hướng rồi đấy.

Có câu phú "Kiếp Không tài phúc, sinh lai bần tiện" Ai cũng nghe đồn là Xử Nữ ki bo. Còn Song Ngư thì sao? Đấy là mẫu người dễ gặp thảm họa về tài chính do vô thiên lủng lý do, 2 lý do nổi bật là làm từ thiện quá tay và quên mất là muốn kiếm tiền thì phải ... tìm việc làm. Và Văn tinh ở cung tật thì thường cũng là vua sến.

Vậy Kiếp Không cư vào cung Phối thì hiểu sao đây, tham khảo bản chất Ma Kết, ta thấy đấy là mẫu người thường khô khan cứng nhắc, thảm họa hôn nhân có lẽ bắt đầu từ đấy. Còn Văn Xương cư Tử Tức, văn tinh ở cung Tử thì dễ có tâm lý hy sinh đời bố củng cố đời con, cũng là 1 nét đặc thù của Ma Kết.

Tất nhiên, dù là chiêm tinh hay tử vi thì để tổng kết lại 1 cách sâu sắc, không thể nào chỉ đơn giản như thế. Nhưng hãy cứ bắt đầu thử ra công tìm hiểu, chúng ta sẽ cùng nhau đi mỗi ngày 1 xa trên con đường không có lối về này!!!